Bệnh đốm trắng (đốm vôi) ở tôm là do vi khuẩn Bacillus subtilis gây ra. Tôm nhiễm bệnh có các đốm trắng mờ đục được nhìn thấy trên vỏ khắp cơ thể. Khi bóc vỏ ra các đốm trắng sẽ nhìn rõ hơn. Đốm trắng có kích cỡ hình tròn nhỏ hơn đốm trắng của bệnh virus WSSV. Tất cả các loài giáp xác ăn thịt thuộc bộ Decapoda, bao gồm tôm, tôm hùm và cua ở các môi trường biển, nước lợ hoặc là nước ngọt thì được coi là dễ bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, bệnh này chủ yếu là vấn đề ở tôm nuôi.
Nguyên nhân gây bệnh đốm trắng (đốm vôi) ở tôm
Bacillus subtilis thuộc giống Bacillus, họ Bacillaceae, bộ Bacillales, lớp Bacilli, ngành Firmicutes. Vi khuẩn có khả năng là nguyên nhân gây ra bệnh đốm trắng (Wang et al. 2000) ở tôm sú nuôi ở Malaysia. Vibrio cholerae cũng thường được nuôi cấy từ mẫu bệnh tôm nuôi (ở Thái Lan); ở các ao có pH và độ kiềm cao và vi khuẩn là nguyên nhân cơ hội (thứ hai). Ở Việt Nam cũng đã nuôi cấy được Vibrio spp từ các mẫu ở tôm sú nuôi (Bùi Quang Tề và CTV, 2004).
Triệu chứng của bệnh đốm trắng (đốm vôi) ở tôm
Tôm sinh trưởng bình thường không có hiện tượng tôm chết. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp cơ thể, khi bóc vỏ ra nhìn rõ hơn. Đốm trắng hình tròn nhỏ hơn đốm trắng của bệnh virus (WSSV). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y ở giữa rỗng (có hiện tượng ăn mòn) khác với đốm trắng do virus có đốm đen (melanin) ở giữa. Các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít nguy hiểm với tổ chức phía trong. Các đốm trắng này có thể mất khi tôm lột vỏ (Wang et al. 2000).
Phân bố bệnh đốm trắng ở tôm
Bệnh đốm trắng do vi khuẩn được mô tả gặp ở tôm sú nuôi ở Malaysia (Wang et al. 2000). Các ao nuôi thâm canh thường xuất hiện bệnh đốm trắng, nhưng test PCR bệnh WSSV âm tính.
Vi rút này được biết là xuất hiện ở nước ngọt, nước lợ và nước biển. Tỷ lệ tử vong nhanh chóng đã được báo cáo ở nhiều quốc gia lên đến 80%; hoặc hơn trong vòng 3 đến 10 ngày. Tất cả các giai đoạn của cuộc đời đều có khả năng bị nhiễm bệnh; từ trứng đến tôm bố mẹ.
Sự lây truyền theo chiều dọc xảy ra từ tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh; và sự lây truyền bệnh theo chiều ngang thường là qua việc ăn thịt những con tôm bị bệnh hoặc sắp chết; hoặc trực tiếp qua nguồn nước bị ô nhiễm.
Mặc dù không cần thiết để truyền bệnh, các vật trung gian truyền vi rút bao gồm luân trùng, động vật thân mềm biển, giun nhiều tơ; và động vật giáp xác không đuôi bao gồm Artemia salina, động vật chân đốt; động vật chân đốt không giáp xác và ấu trùng côn trùng. Chim cũng có thể truyền bệnh từ ao này sang ao khác bằng cách thả tôm bắt được qua các ao lân cận.
Virus hội chứng đốm trắng có thể tồn tại; và giữ khả năng lây nhiễm trong nước biển ở 30C trong ít nhất 30 ngày (trong điều kiện phòng thí nghiệm) và ít nhất bốn ngày trong ao.
Cách phòng trị bệnh
Kiểm soát mật độ vi khuẩn trong nước ao nuôi tôm. Thường xuyên thay nước ao nuôi. Xác định vi khuẩn Bacillus subtilis trong chế phẩm vi sinh hạn chế dùng cho ao nuôi tôm; ngăn chặn chúng có liên quan đến bệnh đốm trắng do vi khuẩn. Ao đã nhiễm bệnh đốm trắng do vi khuẩn dùng vôi nung (CaO) bón cho ao liều lượng 25ppm, để không làm tăng độ kiềm trong ao và tăng pH nhanh. Dùng một số khoáng vi lượng kích thích tôm lột vỏ sẽ giảm bớt các đốm trắng trên thân tôm.