Hội chứng lỏng vỏ (LSS) của tôm sú nuôi Penaeus monodon đã được phát hiện và báo cáo từ các trang trại nuôi tôm ở Ấn Độ từ năm 1998. Và nó được công nhận là một vấn đề dịch bệnh cần được xem xét trong ngành nuôi tôm. Bệnh này không gây tỷ lệ tử vong nhanh chóng như hội chứng đốm trắng và vi rút đầu vàng, mà sự tiến triển của LSS là từ từ. LSS dẫn đến tỷ lệ tử vong tiến triển ở một mức độ thấp. Tôm bị hội chứng này sẽ chuyển hóa thức ăn giảm, tôm có chất lượng thịt kém bởi do suy giảm chức năng gan tụy, bằng chứng là gan tụy bị teo.
Tìm hiểu hội chứng lỏng vỏ (LSS)
LSS là một bệnh tiến triển chậm trên tôm sú nuôi tại Ấn Độ; được đặc trưng bởi một bụng xốp mềm do teo cơ. Bộ vỏ ngoài tạo thành một lớp bao phủ cơ bụng lỏng lẻo; với một khoảng trống ở giữa vỏ và cơ thịt(Alavandi et al. 2007). Kết quả tôm nhiễm bệnh có hiệu quả chuyển đổi thức ăn giảm đáng kể; dẫn đến chất lượng thịt kém, và ao bị ảnh hưởng bị chết liên tục ở mức độ thấp. Ngoài ra hội chứng lỏng vỏ LSS trên tôm sú cũng làm giảm tỷ lệ tăng trưởng, trọng lượng cơ thể và tỷ lệ sống của tôm, dẫn đến giảm sản lượng sinh khối tại các trang trại bị ảnh hưởng.
Nguyên nhân tôm bị hội chứng lỏng vỏ
Trong báo cáo của S.V. Alavandi và cộng sự 2008 thực hiện các nghiên cứu mô học cho thấy không có bằng chứng về tác nhân gây bệnh do nấm, vi khuẩn; hoặc ký sinh trùng liên quan đến LSS. Tuy nhiên nghiên cứu của Sheikh Aftab Uddin và cộng sự 2015 thực hiện ở Bangladesh cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh LSS trong tôm sú có thể liên quan đến nhiều bệnh nhiễm trùng; do vi khuẩn Vibrio, chất lượng đất và nước kém, cũng như quản lý ao kém. Tuy nhiên không có thông tin nào xác định tác nhân chính gây bệnh LSS trên tôm sú.
Triệu chứng của bệnh
Tôm bị hội chứng lỏng vỏ sẽ giảm ăn và có bụng xốp yếu do chứng loạn dưỡng cơ, bộ vỏ ngoài lỏng lẻo. Giữa cơ và vỏ của những con tôm này có một khoảng cách; và đôi khi cho thấy sự đổi màu hồng nhạt của mảnh nắp mang, các chân bơi, và phần dưới của bụng. Trong giai đoạn cấp tính, gan tụy bị co lại. Với sự xuất hiện của các ký sinh trùng Zoothamnium, Vorticella, và Epistylis. Tôm tăng trưởng kém do suy giảm khả năng lột xác.
Mô bệnh học của tôm bị lỏng vỏ
Điều tra mô bệnh học trên tôm bị ảnh hưởng LSS cho thấy sự co rút của cơ duỗi; và cơ gấp với sự xâm nhập hồng cầu không thường xuyên. Gan tụy cho thấy tình trạng viêm của các ống gan tụy với sự mở rộng các khoảng không gian giữa các ống; thâm nhiễm hồng cầu và mức dự trữ lipid trong tế bào R thấp.
Trong giai đoạn tiến triển của LSS, nhiều ống ở tình trạng hoại tử nặng; với biểu mô bong tróc, phản ánh sự rối loạn chức năng của tuyến tiêu hóa. LSS có thể được tạo ra ở tôm sú khỏe mạnh; bằng các nghiên cứu thử thách sử dụng các mô tôm bị ảnh hưởng bởi LSS đã được lọc màng; cho thấy có sự tham gia của một tác nhân lây nhiễm có thể lọc được; thâm nhiễm hồng cầu và mức dự trữ lipid thấp trong tế bào R.
Phân bố của bệnh
Hội chứng lỏng vỏ – Loose shell syndrome (LSS) đã được báo cáo trên tôm sú Penaeus monodon nuôi từ năm 1998 ở Ấn Độ. Và kể từ đó, các báo cáo về tỷ lệ mắc bệnh tăng dần qua từng năm.
LSS đã phổ biến trên các tiểu bang bờ biển phía đông của tiểu lục địa Ấn Độ; tức là. Tamil Nadu, Andhra Pradesh, Orissa và Tây Bengal. Trong giai đoạn 1998 đến 1999, tỷ lệ LSS đã được báo cáo trong khoảng 23 và 14% các trang trại nuôi tôm xung quanh cửa sông Vellar ở Tamil Nadu trong mùa hè và mùa đông (Mayavu et al. 2003).
Phòng trị bệnh LSS
Trong nghiên cứu của N. Jayabalan và cộng sự 2015 khuyến nghị nên cung cấp thức ăn công thức có chứa chất dinh dưỡng với chất lượng nước tốt hơn cũng sẽ giải quyết vấn đề hội chứng vỏ mềm mãn tính ở tôm.
Tuy nhiên đến nay chưa có báo cáo nào chính thức công bố nguyên nhân phòng bệnh mềm vỏ trên tôm. Do đó biện pháp phòng bệnh chung cần thực hiện như sau. Đó là đảm bảo chất lượng nước tốt, thường xuyên bổ sung khoáng; và đảm bảo dinh dưỡng cho tôm nuôi, bổ sung men vi sinh; để duy trì chất lượng nước cho ao nuôi tôm.