Bệnh ngủ trên cá Koi (Koi sleepy disease – KSD) là một căn bệnh có ảnh hưởng nghiêm trọng trong hoạt động nuôi cá chép cảnh ở trên toàn cầu. Bệnh KSD này thường xuất hiện dưới dạng đa yếu tố với một số loài ký sinh trùng và vi khuẩn được hiện diện trên mang, da hoặc là ở trong cơ quan nội tạng của cá. Dấu hiệu bên ngoài của cá bị bệnh thấy mang có vết chấm lốm đốm màu đỏ và màu trắng, mang chảy máu, mắt trũng,…Tỷ lệ gây bệnh khiến cá chết rất cao, và xảy ra rất nhanh trong quần đàn bị nhiễm bệnh.
Tìm hiểu bệnh ngủ trên cá Koi
Bệnh buồn ngủ ở cá Koi (KSD), còn được gọi là vi rút phù nề cá chép (CEV), được báo cáo lần đầu tiên từ cá chép màu con ở Nhật Bản vào những năm 1970. Gần đây, vi rút thủy đậu này đã được phát hiện ở một số nước châu Âu, bao gồm Đức, Pháp và Hà Lan.
Ở Anh, ngoài cá chép màu, dịch bệnh bùng phát ở cá chép thường được báo cáo. KSD / CEV là một bệnh truyền nhiễm mới nổi, đặc trưng bởi hành vi buồn ngủ điển hình, chứng đái tháo đường, tình trạng tụ huyết toàn thân và hoại tử mang, dẫn đến thiếu oxy. Tỷ lệ chết cao, lên đến 80-100%, được thấy ở cá koi con được lấy từ các ao bị nhiễm bệnh.
Ở Áo, bệnh này vẫn chưa được phát hiện cho đến nay. Vào mùa xuân năm 2014, công việc chẩn đoán đã phát hiện ra căn bệnh này trong hai trường hợp không liên quan. Trong một trường hợp, một hồ có cá koi trưởng thành bị ảnh hưởng; mặt khác, Bệnh này được chẩn đoán ở cá chép trưởng thành mới nhập từ Cộng hòa Séc.
Nguyên nhân gây bệnh cá Koi ngủ
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển bệnh cá Koi ngủ
Trong trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phân tích và trình bày các kết quả ban đầu; về sự tương tác giửa vi khuẩn Flavobacteria và virus CEV; trong quá trình hình thành và phát triển của bệnh ngủ ở cá Koi (KSD); từ dấu hiệu lâm sàng ở cá chép bị bệnh mang mầm.
Các nhà khoa học đã kiểm tra các mẫu thực địa được lựa chọn từ Đức và Hungary; và xác nhận sự hiện diện của virus HIVV; và cả sự nhiễm trùng của cá với vi khuẩn Flavobacteria trong các tập hợp mẫu. Đây là loại vi khuẩn dạng sợi (Myxobacterial) ngoại ký sinh; gây tổn thương chủ yếu trên da và mang. Chúng thuộc nhóm vi khuẩn Gram âm, hình que, dài và mảnh; kích thước khoảng 0,5-1.0x 4-10µm; hoạt động rất mạnh, di động trượt.
Thí nghiệm gây nhiễm khuẩn và phân lập định danh
Trong một số thí nghiệm gây nhiễm khuẩn; nhóm nghiên cứu phát hiện có sự chuyển tiếp; và tác động tương trợ của cả hai bệnh; đó là HIVV và vi khuẩn Flavobacteria.
Hơn nữa, các nhà khoa học cũng đã phân tích loài Flavobacterium nào có thể được phân lập từ cá bị ảnh hưởng của cá Koi ngủ (KSD); và kết luận rằng loài Flavobacterium branchiophilum là một mầm bệnh chính xác gây ra tình trạnh nhiễm bệnh thứ cấp; sau khi CEV xâm nhập và gây hại.
Thí nghiệm điều trị kháng sinh cho thấy CEV chính là tác nhân gây bệnh chính gây ra sự tổm hại đến mang cá chép; và tạo điều kiện để các tác nhân gây bệnh khác xâm nhập; bao gồm F. branchiophilum, từ đó thiết lập trạng thái bội nhiễm (nhiễm nhiều tác nhân gây bệnh cùng một lúc).
Mặc dù trên thực tế loài vi khuẩn Flavobacterium branchiophilum được cho là không đáng ngại trong quá trình phát triển của bệnh ngủ trên cá (KSD); tuy nhiên nghiên cứu này đã chứng minh chúng có thể góp phần vào những thay đổi bệnh lý trong các đợt bùng phát bệnh; và gây nên tình trạng kháng thuốc.
Triệu chứng của bệnh cá Koi ngủ
Dấu hiệu bệnh ngoài của bệnh có thể thấy mang có vết chấm lốm đốm màu đỏ và màu trắng (giống như bệnh vi khuẩn dạng sợi); mang chảy máu, mắt trũng, da có đám bạc màu hoặc phồng rộp. Lấy nhớt mang kiểm tra dưới kính hiển vi thường gặp số lượng lớn vi khuẩn và KST khác nhau (Hedrick et al., 2000; OATA, 2001; Goodwin, 2003).
Dấu hiệu bên trong của bệnh không có gì đặc biệt; nhưng chúng có thể là các cơ quan bắm chặt vào xoang cơ thể; và xuất hiện các chấm lốm đốm (Hedrick et al., 2000; Goodwin, 2003).
Tỷ lệ chết rất cao xảy ra rất nhanh trong quần đàn nhiễm bệnh; cá chết bắt đầu trong vòng 24-48 giờ sau khi xuất hiện dấu hiệu bệnh. Thí nghiệm nhiễm bệnh bằng virus ở nhiệt độ 22oC; 82% cá chết trong vòng 15 ngày (Ronen et al., 2003).
Phòng trị bệnh ngủ trên cá Koi
- Khuyến cáo một số biện pháp phòng trị bệnh do Flavobacterium
- Quản lý tốt chất lượng nước.
- Mật độ ương nuôi vừa phải.
- Vận chuyển và chặt lòng tránh sốc và xay xát.
- Ngăn ngừa ký sinh trùng trên cá.