Nuôi cá tra, cá ba sa là một trong những nghề đang được phát triển và gặt hái được nhiều thành công. Tạo ra hàng hóa xuất khẩu và thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tiềm ẩn. các yếu tố nguy cơ, dịch bệnh và cá chết hàng loạt. Vì vậy, vấn đề phòng trị bệnh cũng như ngăn chặn dịch bệnh lây lan là hết sức cần thiết và cấp bách, đòi hỏi người nuôi cá tra phải có kiến thức phòng bệnh và xử lý kịp thời. Giảm thiểu tổn thất khi dịch bệnh xảy ra. Trong bài viết này chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn những phương pháp phòng bệnh trong quá trình nuôi cá tra và cá ba sa.
Phòng bệnh trắng da (hay bệnh đốm trắng) ở cá tra, cá basa
Bệnh dễ xuất hiện khi cá bị xây xát do đánh bắt, sang ao, vận chuyển hoặc do nhiệt độ môi trường nước thay đổi đột ngột và quá cao. Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng sau đó lan dần đến cuống đuôi và toàn thân.
Cá bị bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước, rồi lộn đầu xuống và chết. Bệnh này xảy ra rất nhanh nên phát hiện và phòng bệnh sớm là rất cần thiết. Để trị bệnh dùng một số kháng sinh và thuốc điều trị (thế hệ mới) trộn vào thức ăn hoặc nghiền mịn và pha thành dung dịch ngâm thức ăn viên để cho cá ăn: Sunfadimezin 5g + Oxytetracyclin 2g/100 kg cá kết hợp trộn vào thức ăn Superfact 250g/100kg thức ăn. Từ ngày thứ 3, liều dùng giảm đi một nửa. Cá có thể khỏi bệnh sau 5 ngày dùng thuốc.
Phòng bệnh huyết đường ruột cá tra, cá basa
Xuất hiện chủ yếu vào các tháng mùa khô. Cá bị bệnh bụng chướng to, hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xung huyết. Cá bơi lờ đờ, tách đàn, biếng ăn. Để phòng bệnh có thể dùng cỏ mực thái nhỏ và trộn chung thức ăn cho cá ăn. Liều lượng 1 kg cỏ mực + 70kg thức ăn. Cứ cách 1 tuần cho ăn một lần nhằm phòng bệnh đường ruột rất tốt. Trị bệnh cho cá nên dùng Sunfathiazon 6g+0,5g Thiromin/100kg cá, hoặc Sunfaguanidin 10g/70kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 ngày liền, từ ngày thứ 3 giảm lượng thuốc đi một nửa.
Phòng bệnh sán lá 16 móc ở cá tra, cá basa
Sán thường ký sinh trên mang cá tra, basa. Cả giai đoạn cá giống và nuôi thịt gây viêm loét thối rữa. Có thể dùng lá cây giác (nông dân ĐBSCL vẫn hay dùng) đập dập và bó thành bó nhỏ treo ở đầu bè để phòng ký sinh sán lá. Ngoài ra có thể dùng vôi bột 5 g/m3 để phòng bệnh. Trị bệnh dùng nước muối 3 – 4% hoặc Sunphat đồng 5 – 7g/m3 tắm cho cá 5 – 10 phút. Dùng Formol nồng độ 15 – 20g/m3 (15 – 20ppm) phun trực tiếp xuống ao nuôi cá.
Xuất hiện quanh năm, ở giai đoạn cá thịt như basa nuôi trong bè. Tỉ lệ bệnh tới 100%. Giun hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn và tiêu tốn thức ăn. Phòng trị bệnh đối với cá nuôi bè nên định kỳ 3 tháng một đợt tẩy giun cho cá. Dùng thuốc có gốc Piperazin (thế hệ mới) để tẩy giun cho cá. Mỗi đợt tẩy 3 ngày liên tục.
Lời kết
Cá tra, basa cũng như nhiều loài cá nước ngọt khác dễ bị nhiễm nhiều loại bệnh phổ biến. Các tác nhân gây bệnh cho cá gồm 2 nhóm. Là các bệnh truyền nhiễm (do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng) và tác nhân không truyền nhiễm do môi trường, dinh dưỡng hoặc do các vi sinh vật gây ra.
Bài viết này chúng tôi đã liệt kê những phương pháp phòng trừ những căn bệnh thường gặp ở cá basa và cá tra. Các bạn có thể tham khảo và áp dụng để có những lợi ích tốt nhất trong giai đoạn nuôi cá tra và cá basa của mình. Các bạn có thể tìm thêm một số bài viết về phòng ngừa bệnh tại đây.