Bệnh tụ huyết trùng ở gà, hay còn được gọi là bệnh gà tôi và đây được coi là căn bênh truyền nhiễm nguy hiểm đối với bà con chăn nuôi gà. Nguồn cơn gây ra là từ vi khuẩn Pasteurella multocida aviseptica khi tỷ lệ gà mắc bệnh và chể khá cao. Đặc biệt tụ huyết trùng thường lây nhiễm qua vết thương, miệng mũi khi tiếp xúc và trường hợp dễ mắc bệnh nhất thường xảy ra ở gà độ 3 tháng tuổi. Hãy cùng chuyên mục các bệnh ở gà thịt, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết một số kiến thức của bệnh tụ huyết trùng ở gà nhé!
Nguyên nhân gây bệnh
Do vi khuẩn Pasteurella multocida aviseptica. Tỷ lệ mắc bệnh và chết cao ở tất cả các loài gia cầm (15 – 75%. Lây nhiễm qua miệng, mũi, kết mạc hoặc vết thương. Thường xảy ra ở gà từ 3 tháng tuổi trở lên, hiện nay tuổi mắc bệnh thường sớm hơn. Tất cả các loài gia cầm đều cảm thụ bệnh.
Vi khuẩn gây bệnh dễ bị diệt bởi thuốc sát trùng, ánh nắng và nhiệt độ cao. Tuy nhiên, chúng có thể tồn tại hàng tháng trong xác gia cầm chết nên cần chú ý xử lý xác gia cầm chết trong thời gian bệnh bộc phát. Bệnh lây lan qua đường tiêu hóa, hô hấp, vết thương ngoài da, tiếp xúc với gia cầm bệnh.
Triệu chứng của gà bệnh
Gà, vịt, ngan chết đột ngột nhất là vào thời điểm sau cơn mưa trời nắng gắt, gà bị bệnh sốt cao giảm ăn, uống nhiều nước, khi bắt gà dốc ngược lên miệng gà chảy nhiều nước nhầy, gà tiêu chảy phân loãng màu phân xanh, phân trắng, phân xanh xuất hiện nhiều hơn, gà xù lông, khó thở, tím tái mào và chết, gà mái đang ấp cũng chết. Gà chết sờ tay nắn diều gà thấy diều gà vẫn còn nhiều thức ăn. Bệnh có 3 thể:
Thể quá cấp tính
Gia cầm chết rất nhanh, không quan sát kịp triệu chứng. Gà bệnh ủ rũ cao độ trong 1 – 2 giờ lăn ra chết. Nhiều trường hợp gà mái nhảy ổ đẻ, gà đang kiếm mồi, giãy giụa lăn ra chết do vi khuẩn vào máu gây nhiễm trùng huyết làm gà chết nhanh.
Thể cấp tính
Là thể bệnh khá phổ biến, gà sốt cao ( 42 – 43 độ C), ủ rũ, bỏ ăn, xù lông, đi lại chậm chạp, phân lẫn máu. Mào, tích tím bầm do tụ máu, khó thở trầm trọng và chết do kiệt sức.
Thể mãn tính
Thường thấy ở cuối ổ dịch, gà bệnh kém ăn, gầy sút, mào, yếm nhợt nhạt. Gà ỉa phân lỏng, lẫn chất nhầy màu vàng hoặc lẫn máu và đi lại khó khăn do viêm sưng khớp chân.
Bệnh tích của bệnh
Thể cấp tính
Tích nước bao tim và xoang phúc mạc. Phổi viêm, xung huyết nặng; Gan sưng, có nhiều ổ hoại tử nhỏ. Xung huyết niêm mạc tá tràng; Xuất huyết điểm mỡ vành tim và tràn lan. Nang trứng nhũn, bị vỡ. Có lòng đỏ trong xoang bụng ở gà mái đẻ. Tích, mào, thịt thâm.
Thể mãn tính
Nhiễm trùng cục bộ, có các ổ mủ rải rác trong toàn bộ cơ thể. Phù phổi, viêm phổi và viêm quanh gan. Viêm kết mạc mãn tính và phù mặt. Có dịch bã đậu trong các khớp chân, túi xương ức, các đệm chân, xoang bụng, vòi trứng, tai giữa.
Chẩn đoán bệnh tụ huyết trùng
Đặc điểm dịch tễ của bệnh tụ huyết trùng ở gà là có tính lẻ tẻ, xảy ra phổ biến ở các loại gia cầm như gà vịt. Vật nuôi có triệu chứng bệnh nặng và chết rất nhanh. Đặc trưng của bệnh tích là có những đám hoại tử trên gan, viêm bao tim tích nước vàng.