Bệnh dịch tả này được nhà bác học Baudet phát hiện ra lần đầu tiên trong một ổ dịch của vịt ở Hà Lan vào năm 1923. Cho đến ngày nay, bệnh dịch tả phân bố khắp các châu lục, nhất là các quốc gia có ngành chăn nuôi gia cầm phát triển rất cao như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,.. Ở Việt Nam, bệnh dich được phát hiện lần đầu tiên là ở vùng Đồng bằng sông Hồng. Hàng năm, các ổ dịch tả vẫn đang xảy ra ở nhiều quận, huyện, tỉnh, thành trong cả nước, vì vậy hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về bệnh dịch tả này dưới bài viết sau.
Bệnh dịch tả ở ngỗng vô cùng nguy hiểm
Bệnh Dịch tả ngỗng là một bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm với tỷ lệ chết rất cao ở ngỗng, ngan và thiên nga từ 1-4 tuần tuổi, ít khi đến 3 tháng tuổi do một loại Parvovirut gây ra. Bệnh được mang các tên khác nhau: cúm ngỗng, dịch tả ngỗng, viêm gan virut ngỗng, viêm ruột virut ngỗng, viêm thoái hóa cơ tim truyền nhiễm, viêm gan, thận tích nước ở ngỗng, bệnh Derzy
Lý do dẫn tới bệnh
Bệnh dịch tả ngỗng do một loại Parvovirut thuộc nhóm Parvoviridae.
Gia cầm bị mắc bệnh dịch tả
- Ngỗng, ngan, thiên nga và hoang cầm.
- Bệnh không có ở gà.
Độ tuổi bị mắc bệnh dịch tả
- Bệnh thường xảy ra ở ngỗng từ 1-3 tháng tuổi.
- Nặng nhất ở ngỗng từ 1-4 tuần tuổi
Bị lây truyền qua các đường
- Bệnh được lây lan qua tiếp xúc trực tiếp: qua đường miệng và hô hấp (truyền ngang).
- Bệnh cũng truyền lây từ mẹ sang con qua phôi trứng (truyền dọc).
Triệu chứng bệnh dịch tả ở ngỗng
Bệnh có 4 thể biểu hiện.
Triệu chứng cấp tính
Ngỗng sốt cao, chán ăn, chậm chạp, mệt lả rồi chết trong thời gian từ 1-5 ngày, tỷ lệ chết cao đến 100% ở ngỗng sơ sinh đến 7-10 ngày tuổi.
Thời gian ủ bệnh từ 2-7 ngày. Khi bệnh nổ ra do chủng có độc tính mạnh, vịt, ngan chết ngay khi con đang bơi mà không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Khi mắc bệnh, lúc đầu ngan, vịt kém linh hoạt, ăn ít hoặc bỏ ăn, nằm một chỗ, cánh xoã xuống đất, đi lại khó khăn, lười bơi lôi. Ở ngan, vịt con, lúc đầu bị viêm giác mạc, mắt ướt và thấm ướt cả lông xung quanh mắt, sau đó sưng và dính mi mắt, ngan, vịt không mở mắt được.; về sau võng mạc, thuỷ tinh thể bị biến đổi làm cho mù. Dịch chảy từ mũi, mỏ cắm xuống đất nước và có nhầy bẩn.
Vịt, ngan bệnh lông xù, tiêu chảy, phân vàng hoặc xanh nhạt, đôi khi lẫn máu; quanh hậu môn dính đầy phân; bỏ ăn nhưng rất khát nước. Nhiều con có triệu chứng thần kinh, mỏ cắm xuống đất. Ở vịt, ngan đẻ thì tỷ lệ đẻ giảm rõ rệt, có khi chỉ còn 15-16%. Sau 1-3 ngày mắc bệnh, một số con có biểu hiện phục hồi, nhưng chỉ sau vài ngày triệu chứng xuất hiện lại nghiên trọng hơn, con vật suy kiệt và chết.
Triệu chứng thể cấp dưới
- Sốt cao, khát nước, chán ăn, mệt, ủ rũ, ngại vận động.
- Chảy nước mũi, hay lắc đầu vảy mỏ, mí mắt đỏ và phù nề, đây là điểm khác biệt với bệnh thiếu vitamin A.
- Niêm mạc vùng hầu họng được phủ một lớp màng giả dễ bóc, khi lột bỏ lớp màng giả này thấy rõ các điểm hoại tử sâu, đau.
- Ngỗng giảm hoặc bỏ ăn, nhưng tiêu chảy mạnh, phân có màu xanh vàng hoặc xanh trắng vàng.
- Chúng gầy rộc và chết, tỷ lệ chết phụ thuộc vào tuổi ngỗng và bệnh thứ phát.
- Nếu ngỗng vừa mới nở chúng sẽ chết 100% trong một tuần đầu.
- Nếu ngỗng 2-3 tuần tuổi thì tỷ lệ chết khoảng 10%.
- Nếu trên 3-4 tuần tuổi chúng bị bệnh nhưng tỷ lệ chết không đáng kể. Nếu bị bệnh thứ phát thì tỷ lệ chết sẽ phụ thuộc vào bản chất bệnh bội nhiễm.
Triệu chứng mãn tính
- Đây là bệnh của những ngỗng có sức đề kháng tốt hoặc còn sống sót từ 2 thể bệnh nêu trên với các triệu chứng tiếp theo
- Bệnh kéo dài hàng tháng.
- Lông ở lưng và cổ bị rụng nhiều, rụng hết, để lại phần da đỏ dễ quan sát thấy
- Thế đứng của ngỗng thật đặc biệt (Pinguaving).
- Ngỗng bệnh chết rải rác, tỷ lệ chết không đáng kể.
Triệu chứng mang trùng
Bệnh không có các dấu hiệu rõ ràng, chỉ mang trùng và trở thành nguồn bệnh nguy hiểm.
Bệnh tích dịch tả
Bệnh thể cấp tính dịch tả
- Cơ tim nhợt nhạt như thịt luộc
- Tim to, đầu tù.
Bệnh thể cấp dưới
- Viêm màng tim (Pericarditis) từ viêm tiết dịch cata đến viêm tiết xơ (Fibrin).
- Viêm màng gan, gan sưng to và rắn chắc hơn bình thường và bị thoái hóa.
- Lách và tụy cũng sưng to.
- Phổi bị phù nề.
- Ruột bị viêm tiết dịch (cata).
- Dạ dày bị viêm loét có màng giả.
- Vùng hầu, họng (thanh quản, khí quản, thực quản) đều bị viêm loét tạo màng giả.
- Đáng chú ý nhất là có xuất huyết điểm hoặc thành vệt ở cơ đùi, cơ ngực.
Bệnh thể mãn
- Vùng cổ và lưng bị trụi lông, để lộ ra các đám da đỏ tấy.
- Gan và lách sưng to.
- Xoang bụng chứa nhiều dịch thẩm xuất.